Nâzım Hikmet Ran (15
tháng 1 năm 1902 – 3 tháng 6 năm 1963) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người
Thổ Nhĩ Kỳ. Ông được miêu tả là một “người cộng sản lãng mạn” và “nhà cách mạng
lãng mạn”. Ông đã nhiều lần bị bắt vì niềm tin chính trị của mình và đã trải
qua phần lớn cuộc đời trưởng thành của mình trong tù hoặc lưu đày. Thơ của ông
đã được dịch ra hơn năm mươi thứ tiếng.
Tiểu sử
Sinh ra trong một gia đình quý tộc. Cha ông, Hikmet Bey, là một công chức làm việc trong Bộ Ngoại giao Đế quốc Ottoman. Ông nội Mehmet Nazim Pasha từng là thống đốc ở Diyarbakir, Aleppo, Konya, Sivas và là thành viên của dòng Mevlevi Sufi và tuyên bố quan điểm tự do. Mẹ của ông là một phụ nữ có học thức thời bà, biết tiếng Pháp, biết chơi piano.
Nazim Hikmet đã giới thiệu thể thơ
tự do (vers libre) vào thơ Thổ Nhĩ Kỳ, tự tách mình ra khỏi “các nhà thơ đồng
âm” về mặt khái niệm. Những bài thơ đầu tiên của ông được viết theo hệ thống âm
tiết nhưng sau đó ông bắt đầu tìm kiếm những hình thức mới. Hikmet chịu ảnh
hưởng từ những người theo chủ nghĩa Vị lai của Liên Xô, đặc biệt là Mayakovsky.
Trở về quê hương năm 1924, ông lãnh đạo phong trào tiên phong ở Thổ Nhĩ Kỳ, thử
nghiệm trong thơ ca và kịch. Sau khi từ bỏ thơ âm tiết, Hikmet chuyển sang sử
dụng thơ tự do, điều này cho phép ông nhận thức đầy đủ hơn các đặc điểm thanh
âm của ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ. Các yếu tố của truyền thống thơ ca Ottoman được kết
hợp trong thơ của ông với những hình thức mới nhất.
Lối hành văn trào lộng và những tình
tiết vốn có trong những bài thơ ban đầu của ông sau này đã nhường chỗ cho chất
trữ tình sâu lắng. Ảnh hưởng của Nazim Hikmet đối với thơ ca Thổ Nhĩ Kỳ hiện
đại là rất lớn, ở đó cả một xu hướng gắn liền với tên tuổi của ông.
Bất chấp sự đàn áp của nhà nước,
Nazım Hikmet nhanh chóng được công chúng biết đến, trong các năm 1930-1932 ông
đã xuất bản 5 tập thơ và 2 vở kịch. Tuy nhiên, các tác phẩm của Hikmet thường
bị kiểm duyệt và bản thân ông cũng nhiều lần bị bắt. Năm 1933 ông bị buộc tội
tham gia vào một tổ chức bị cấm và âm mưu lật đổ chế độ, bị bắt và bị kết án 5
năm tù (1 năm sau được ân xá). Sau đó, cứ sau mỗi cuốn sách xuất bản ông đều bị
kết án tù.
Nazim Hikmet qua đời vì một cơn
đau tim ngày 3 tháng 6 năm 1963. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Novodevichy
ở Moskva, Nga.
Trong những năm gần đây đã có một
cuộc thảo luận ở Thổ Nhĩ Kỳ xung quanh việc trả lại quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ cho
nhà thơ. Để ủng hộ điều này, theo sáng kiến của Đảng Quyền lực Xã hội Chủ nghĩa
(nay là Đảng Cộng sản), hàng nghìn chữ ký của người dân đã được thu thập nhưng
những người theo chủ nghĩa dân tộc và các chính trị gia cánh hữu đã quyết liệt
chống lại những nỗ lực phục hồi “kẻ phản bội” đã “chống lại nhà nước”.
5 bài thơ
ĐÔNG KI SỐT
Chàng hiệp sĩ của tuổi xuân bất tử
Tuổi năm mươi nghe lời gọi trong tim
Một buổi sáng tháng bảy chàng lên đường
Vì cái đẹp, công bằng và chính trực.
Trước mặt chàng – những khổng lồ ngu ngốc
Con ngựa Rosinant dũng cảm nhưng buồn.
Tôi biết
Rằng chàng vẫn luôn khát khao cái đẹp
Nhưng nếu trái tim chỉ nặng nửa cân
Thì Đông Ki Sốt ạ, chỉ vô phương
Đánh nhau với cối xay gió là vô ích.
Chàng nói đúng, quả thật
Đun-xi-nê* là người đẹp nhất trần gian
Chàng sẽ gào lên trước mặt những con buôn
Và chúng sẽ lăn xả vào chàng đánh đập
Nguyền rủa chàng không một chút tiếc thương.
Nhưng chàng hiệp sĩ của niềm khao khát
Không một ai có thể thắng được chàng
Trong áo giáp nặng nề chàng sẽ cháy lên
Và ánh lửa bập bùng trong đôi mắt
Để Đun-xi-nê sẽ đẹp gấp trăm lần.
_____________
Sinh ra trong một gia đình quý tộc. Cha ông, Hikmet Bey, là một công chức làm việc trong Bộ Ngoại giao Đế quốc Ottoman. Ông nội Mehmet Nazim Pasha từng là thống đốc ở Diyarbakir, Aleppo, Konya, Sivas và là thành viên của dòng Mevlevi Sufi và tuyên bố quan điểm tự do. Mẹ của ông là một phụ nữ có học thức thời bà, biết tiếng Pháp, biết chơi piano.
Tuổi năm mươi nghe lời gọi trong tim
Một buổi sáng tháng bảy chàng lên đường
Vì cái đẹp, công bằng và chính trực.
Trước mặt chàng – những khổng lồ ngu ngốc
Con ngựa Rosinant dũng cảm nhưng buồn.
Rằng chàng vẫn luôn khát khao cái đẹp
Nhưng nếu trái tim chỉ nặng nửa cân
Thì Đông Ki Sốt ạ, chỉ vô phương
Đánh nhau với cối xay gió là vô ích.
Đun-xi-nê* là người đẹp nhất trần gian
Chàng sẽ gào lên trước mặt những con buôn
Và chúng sẽ lăn xả vào chàng đánh đập
Nguyền rủa chàng không một chút tiếc thương.
Nhưng chàng hiệp sĩ của niềm khao khát
Không một ai có thể thắng được chàng
Trong áo giáp nặng nề chàng sẽ cháy lên
Và ánh lửa bập bùng trong đôi mắt
Để Đun-xi-nê sẽ đẹp gấp trăm lần.
_____________
*Đun-xi-nê (Dulcinea) là nhân vật
trung tâm trong tác phẩm “Don Quijote” của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de
Cervantes, người yêu dấu của Đông Ki Sốt.
Don Kişot
Ölümsüz gençliğin şövalyesi
ellisinde uydu yüreğinde çarpan aklına,
bir Temmuz sabahı fethine çıktı
güzelin, doğrunun, haklının:
önünde, şirret, aptal devleriyle dünya,
altında mahzun, fakat kahraman Rosinant’ı.
Bilirim
hele bir düşmeyegör hasretin hâlisine,
hele bir de tam okka dört yüz dirhemse yürek,
yolu yok, Don Kişot’um benim, yolu yok,
yeldeğirmenleriyle döğüşülecek.
Haklısın,
elbette senin Dülsinya’ndır en güzel kadını yeryüzünün,
sen, elbette bezirgânların suratına haykıracaksın bunu,
alaşağı edecekler seni
bir temiz pataklayacaklar.
Fakat, sen, yenilmez şövalyesi susuzluğumuzun,
sen, bir alev gibi yanmakta devâmedeceksin
ağır, demir kabuğunun içinde
ve Dülsinya bir kat daha güzelleşecek…
NÀNG BẢO ĐẾN GẤP VỚI EM
Nàng bảo: “Đến gấp với em”
“Hãy cười với em” – nàng bảo
Nàng bảo: “Anh hãy yêu em”
“Hãy giết em đi” – nàng bảo.
Và tôi đến gấp
Và tôi đã cười
Và tôi đã yêu
Và tôi đã giết.
Gelsene dedi bana
Gelsene dedi bana
Kalsana dedi bana
Gülsene dedi bana
Ölsene dedi bana
Geldim
Kaldım
Güldüm
Öldüm”
BIỂN ĐẸP NHẤT
Biển đẹp nhất trên đời
Đó là nơi mà ta chưa từng đến.
Đứa trẻ ngoan nhất trên đời
Là đứa trẻ hãy vẫn còn chưa lớn.
Những ngày tháng đẹp nhất trong
đời
Là những ngày mà ta chưa trải nghiệm.
Lời đẹp nhất nói với em tôi muốn
Là những lời tôi chưa nói với ai…
En güzel
En güzel deniz:
henüz gidilmemiş olandır.
En güzel çocuk:
henüz büyümedi.
En güzel günlerimiz:
henüz yaşamadıklarımız.
Ve sana söylemek istediğim en güzel söz:
henüz söylememiş olduğum sözdür...
GƯƠNG MẶT CỦA NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ
Maria không sinh ra Đấng Christ
Maria không phải là mẹ của Chúa Kitô
Maria là mẹ của bao người mẹ
Đức Mẹ Đồng Trinh sinh đứa con trai
Đứa con trai của loài người
Có phải chính vì thế
Mà Maria xinh đẹp ở khắp nơi
Và con trai của Maria giống tất cả mọi người.
Khuôn mặt của những người phụ nữ
là những câu chuyện day dứt của chúng ta
sự xấu hổ, nỗi buồn và máu của ta
như lưỡi cày vẽ lên gương mặt những người phụ nữ.
Và niềm vui của ta trong đôi mắt
phụ nữ
lấp lánh như bình minh trên mặt nước hồ.
Trên gương mặt phụ nữ là những mơ
ước của ta
những người yêu dấu của ta luôn trước mặt
gần hơn và xa hơn với bản chất thực sự của ta.
Kadinlarimizin Yüzleri
Meryem ana Tanrıyı doğurmadı
Meryem ana Tanrının anası değil
Meryem ana analardan bir ana
Meryem ana bir oğlan doğurdu
Âdemoğullarından bir oğlan
Meryem ana bundan ötürü güzel bütün suretlerinde
Meryem ananın oğlu bundan ötürü kendi oğlumuz gibi
yakın bize
Kadınlarımızın yüzü acılarımızın
kitabıdır
acılarımız, ayıplarımız ve döktüğümüz kan
karasabanlar gibi çizer kadınların yüzünü.
Ve sevinçlerimiz vurur gözlerine
kadınların
göllerde ışıyan seher vakıtları gibi.
Hayallerimiz yüzlerindedir
sevdiğimiz kadınların,
görelim görmeyelim karşımızda dururlar
gerçeğimize en yakın ve en uzak.
NỖI BUỒN
Tôi muốn trở về với biển!
Tôi muốn hình tôi phản ánh
Trong gương nước biển bao la!
Tôi muốn trở về với biển!
Những con tàu hướng về những chân
trời xa
Giá mà nỗi buồn có thể treo lên cánh buồm lộng gió
Giá được suốt ngày đứng trên tàu nhìn phía biển xa
Thì chết cũng không sao vì cuộc đời này đáng giá.
Tôi muốn như tia sáng chìm trong
nước sâu
Rồi ánh lên trên ngọn sóng
Tôi muốn quay về với biển khơi!
Tôi muốn quay về với biển!
Hasret
Denize dönmek istiyorum!
Mavi aynasında suların:
boy verip görünmek istiyorum!
Denize dönmek istiyorum!
Gemiler gider aydın ufuklara
gemiler gider!
Gergin beyaz yelkenleri doldurmaz keder.
Elbet ömrüm gemilerde bir gün olsun nöbete yeter.
Ve madem ki bir gün ölüm mukadder;
Ben sularda batan bir ışık gibi
sularda sönmek istiyorum!
Denize dönmek istiyorum!
Denize dönmek istiyorum!
ellisinde uydu yüreğinde çarpan aklına,
bir Temmuz sabahı fethine çıktı
güzelin, doğrunun, haklının:
önünde, şirret, aptal devleriyle dünya,
altında mahzun, fakat kahraman Rosinant’ı.
hele bir düşmeyegör hasretin hâlisine,
hele bir de tam okka dört yüz dirhemse yürek,
yolu yok, Don Kişot’um benim, yolu yok,
yeldeğirmenleriyle döğüşülecek.
elbette senin Dülsinya’ndır en güzel kadını yeryüzünün,
sen, elbette bezirgânların suratına haykıracaksın bunu,
alaşağı edecekler seni
bir temiz pataklayacaklar.
Fakat, sen, yenilmez şövalyesi susuzluğumuzun,
sen, bir alev gibi yanmakta devâmedeceksin
ağır, demir kabuğunun içinde
ve Dülsinya bir kat daha güzelleşecek…
“Hãy cười với em” – nàng bảo
Nàng bảo: “Anh hãy yêu em”
“Hãy giết em đi” – nàng bảo.
Và tôi đã cười
Và tôi đã yêu
Và tôi đã giết.
Kalsana dedi bana
Gülsene dedi bana
Ölsene dedi bana
Kaldım
Güldüm
Öldüm”
Đó là nơi mà ta chưa từng đến.
Đứa trẻ ngoan nhất trên đời
Là đứa trẻ hãy vẫn còn chưa lớn.
Là những ngày mà ta chưa trải nghiệm.
Lời đẹp nhất nói với em tôi muốn
Là những lời tôi chưa nói với ai…
henüz gidilmemiş olandır.
En güzel çocuk:
henüz büyümedi.
henüz yaşamadıklarımız.
Ve sana söylemek istediğim en güzel söz:
henüz söylememiş olduğum sözdür...
Maria không phải là mẹ của Chúa Kitô
Maria là mẹ của bao người mẹ
Đức Mẹ Đồng Trinh sinh đứa con trai
Đứa con trai của loài người
Có phải chính vì thế
Mà Maria xinh đẹp ở khắp nơi
Và con trai của Maria giống tất cả mọi người.
là những câu chuyện day dứt của chúng ta
sự xấu hổ, nỗi buồn và máu của ta
như lưỡi cày vẽ lên gương mặt những người phụ nữ.
lấp lánh như bình minh trên mặt nước hồ.
những người yêu dấu của ta luôn trước mặt
gần hơn và xa hơn với bản chất thực sự của ta.
Meryem ana Tanrının anası değil
Meryem ana analardan bir ana
Meryem ana bir oğlan doğurdu
Âdemoğullarından bir oğlan
Meryem ana bundan ötürü güzel bütün suretlerinde
Meryem ananın oğlu bundan ötürü kendi oğlumuz gibi
yakın bize
acılarımız, ayıplarımız ve döktüğümüz kan
karasabanlar gibi çizer kadınların yüzünü.
göllerde ışıyan seher vakıtları gibi.
görelim görmeyelim karşımızda dururlar
gerçeğimize en yakın ve en uzak.
Tôi muốn hình tôi phản ánh
Trong gương nước biển bao la!
Tôi muốn trở về với biển!
Giá mà nỗi buồn có thể treo lên cánh buồm lộng gió
Giá được suốt ngày đứng trên tàu nhìn phía biển xa
Thì chết cũng không sao vì cuộc đời này đáng giá.
Rồi ánh lên trên ngọn sóng
Tôi muốn quay về với biển khơi!
Tôi muốn quay về với biển!
Mavi aynasında suların:
boy verip görünmek istiyorum!
Denize dönmek istiyorum!
Gergin beyaz yelkenleri doldurmaz keder.
Elbet ömrüm gemilerde bir gün olsun nöbete yeter.
Ve madem ki bir gün ölüm mukadder;
sularda sönmek istiyorum!
Denize dönmek istiyorum!
Denize dönmek istiyorum!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét